Truyện xưa kể rằng… Thần Nông – Viêm Đế, hay Ngũ cốc Tiên Đế. Ông sống vào những năm 2737 – 2698 TCN, là một vị Vua huyền thoại và là vị thần của người Việt cổ, là vị thần của cư dân phương Nam, là tổ tiên huyền thoại của Vua Hùng. Thần Nông sinh ra Đế Minh, Đế Minh sinh ra Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân sinh ra Vua Hùng. Theo truyền thuyết, ngoài việc là ông tổ nông nghiệp, dạy dân cách trồng cấy, làm cày bừa, ông còn là ông tổ của nghề gốm sứ và nghề y dược. Truyền thuyết kể rằng: Ban đầu Thần Nông có thân hình trong suốt, vì vậy ông có thể nhìn thấy tác động của các loại cây cỏ lên cơ thể mình. Ông là người tìm ra các cây thuốc để chữa bệnh, có ngày ông nếm tới 70 cây thuốc khác nhau. Ông đã tìm ra được 365 loại thuốc chữa bệnh từ cây cỏ, khoáng vật và phần cơ thể động vật tập hợp thành bộ sách có tên là “ Thần Nông bản thảo kinh” , đây cũng là dược điển sớm nhất của người Trung Hoa, ông còn là người đầu việc châm cứu chữa bệnh, chính vì vậy mà Thần Nông được tôn kính là ông tổ của y học Trung Hoa. Ông chết do nếm phải một loại độc dược mà không kịp lấy thuốc chữa. Năm 452 – 536, Đào Hoằng Cảnh căn cứ vào các tài liệu được khai quật tại các mộ cổ để biên soạnThần Nông Bản Thảo Kinh. Đây là dược điển cổ nhất của Trung Quốc hiện tồn, luận bàn 365 loại dược vật, 252 loại thực vật, 67 loại động vật, và 46 loại khoáng vật. Trong Thần Nông Bản Thảo Kinh Đào Hoằng Cảnh liệt kê các dược tính của dược liệu tương tự theo hệ thống hành chính trong vương quốc. Dược liệu phân làm ba hạng: thượng, trung, hạ; mỗi hạng có chức năng vương (vua) hay thần (bầy tôi). Thuốc nào làm khang kiện thân thể và ích thọ diên niên thì xếp vào loại «thuốc vua» (vương dược); thuốc nào chỉ có tác dụng trị bệnh mà thôi thì xếp vào loại «thuốc bầy tôi» (thần dược).
Tác phẩm này tập hợp những kinh nghiệm về dược vật từ đời Hán trở về trước, tất cả 365 loại, trong đó thực vật chiếm đa số (252 vị), kế là động vật (67 vị) và sau cùng là khoáng thạch (46 vị) và có thể coi là cuốn sách về dược học đầu tiên của Trung Hoa. Cuốn sách này chia các vị thuốc ra làm 3 loại Thượng, Trung và Hạ. Trong sách này, nấm linh chi là dược loại đứng đầu của thượng phẩm, trên cả nhân sâm, là một dược thảo được xem là kỳ diệu, có rất nhiều hiệu năng, dùng lâu không hại, có thể giúp người ta diên niên trường thọ… Sau khi đã thống nhất được đất nước, củng cố được quyền lực, Tần Thủy Hoàng liền nghĩ đến việc sống trường thọ.
Dựa vào những hướng dẫn của sách Thần Nông bản thảo, Tần Thủy Hoàng muốn kiếm những cây nấm Linh chi này nên sai đạo sĩ Từ Phúc, Ngự y Lư sinh đem 1500 đồng nam, 1500 đồng nữ dong thuyền ra Đông Hải tìm thuốc trường sinh. Phái đoàn đó ra đi mà không thấy trở về không biết vì mất tích ngoài biển cả hay vì không kiếm ra nên sợ không dám về phục mệnh. Có thuyết cho rằng họ đã định cư trên quần đảo Phù Tang và là tổ tiên của người Nhật hiện nay. Trong lịch sử không biết bao nhiêu người đã tìm cách gây giống và trồng loại nấm này nhưng đều thất bại. Mãi tới năm 1971, hai nhà bác học người Nhật tên là Yukio Naoi và Zenzaburo Kasai, giáo sư của phân khoa nông nghiệp, đại học Kyoto mới thành công trong việc gây giống và người ta mới sản xuất được vị thuốc này một cách quy mô. Từ đó nấm linh chi được trồng và sử dụng trong việc bào chế chứ không chỉ là huyền thoại.
Dựa vào những hướng dẫn của sách Thần Nông bản thảo, Tần Thủy Hoàng muốn kiếm những cây nấm Linh chi này nên sai đạo sĩ Từ Phúc, Ngự y Lư sinh đem 1500 đồng nam, 1500 đồng nữ dong thuyền ra Đông Hải tìm thuốc trường sinh. Phái đoàn đó ra đi mà không thấy trở về không biết vì mất tích ngoài biển cả hay vì không kiếm ra nên sợ không dám về phục mệnh. Có thuyết cho rằng họ đã định cư trên quần đảo Phù Tang và là tổ tiên của người Nhật hiện nay. Trong lịch sử không biết bao nhiêu người đã tìm cách gây giống và trồng loại nấm này nhưng đều thất bại. Mãi tới năm 1971, hai nhà bác học người Nhật tên là Yukio Naoi và Zenzaburo Kasai, giáo sư của phân khoa nông nghiệp, đại học Kyoto mới thành công trong việc gây giống và người ta mới sản xuất được vị thuốc này một cách quy mô. Từ đó nấm linh chi được trồng và sử dụng trong việc bào chế chứ không chỉ là huyền thoại.
Ngoại sử chép rằng, trong một tiệc tân niên đãi các sứ thần ngoại quốc, Từ Hi Thái Hậu nhà Thanh đã tổ chức một bữa ăn gồm tổng cộng 365 món, kéo dài bảy ngày đêm, mỗi ngày có một món đặc biệt. Bảy món cho bảy ngày là Linh chi, tượng tinh, sơn dương trùng, chuột bạch bao tử, óc khỉ, trứng công và nhũ trư (heo sữa)… Bữa tiệc kéo dài từ sáng mồng một đến mồng bảy tháng giêng, nhưng Linh chi được xếp đứng đầu…
NẤM LINH CHI
Linh chi viết theo kiểu phiên âm Trung Hoa Ling Zhi hay Ling chih, tên khoa học Ganoderma lucidum, là một loại nấm thuộc họ đa khổng (polyporaceae).
Trong thiên nhiên, nấm này thường chỉ có nơi rừng rậm, ít ánh sáng và độ ẩm cao. Những cây thường có Linh chi là cây mận, dẻ… Tuy nhiên trong hàng vạn cây già, chỉ có độ hai ba cây có Linh chi. Vì thế nấm này rất hiếm trong dạng thiên nhiên. Hơn thế nữa, nấm tìm được thường không mấy khi nguyên vẹn mà hay bị sâu bọ cắn nát. Vỏ ngoài của Linh chi rất cứng, nên việc nẩy mầm càng thêm khó khăn và việc tìm được cây nấm trở thành huyền thoại.
Linh chi có nhiều hình dạng khác biệt, có cái hình nấm nhưng mũ nấm không tròn mà nhăn nheo, có thứ giống như trái thận, có thứ lại hình giống như sừng hươu. Theo sách Thần Nông Bản Thảo có 6 loại Linh chi, mỗi loại có một công năng đặc biệt. Thanh chi (xanh) vị chua, tính bình, giúp cho mắt sáng, bổ can khí, giúp cho an thần, dùng lâu thận thể sẽ nhẹ nhàng, thoải mái. Xích chi (đỏ), vị đắng, chủ về phủ vị, ích cho khí của tạng tâm, tăng trí tuệ. Hắc chi (đen) ích thận khí, khiến cho đầu óc tinh tường. Bạch chi (trắng) ích phế khí, làm cho trí nhớ dai. Hoàng chi (vàng) ích tỳ khí, an thần, trung hòa. Tử chi (tím đỏ) bảo thần, ích tình, làm cứng gân cốt, da tươi đẹp. Cả sáu loại đều có công năng giúp người ta thân thể nhẹ nhàng, trẻ mãi không già, trường thọ.
Sách Bản Thảo cương mục viết là “Dùng lâu, người nhẹ nhàng, không gì, sống lâu như thần tiên.” Nói chung, Linh chi bổ ngũ tạng, nhưng mỗi loại bổ một khác. Tuy nhiên những hướng dẫn trong sách Thần Nông bản thảo hầu như chỉ dựa trên ngũ hành, ngũ sắc để luận hơn là được thử nghiệm thực tế. Màu xanh thuộc mộc, chủ can, cho nên thanh chi bổ gan; màu trắng thuộc kim, chủ phế, cho bên bạch chi bổ phổi; màu đen thuộc thủy, chủ thận, cho nên bổ thận; màu vàng thuộc thổ, chủ tỳ vị cho nên bổ tỳ… Những tác dụng và hiệu quả đều từ lý luận này mà suy ra.
Linh chi có rất nhiều tên gọi và có rất nhiều loại Linh chi khác nhau. Các loài Linh chi được xếp vào một họ riêng là họ nấm Linh chi Ganodermataceae, trong đó có chi Ganoderma có đến 80 loài. Riêng nấm có màu đỏ đã có 45 loại có màu sác khác nhau thay đổi từ vàng, cam, đỏ tía… Ngoài ra, nếu trồng Linh chi trong môi trường, điều kiện khác nhau, sẽ có màu sắc khác nhau. Do vậy, Linh chi đỏ được gọi là Linh chi chuẩn và tốt nhất trong các loại thuộc họ Linh chi.
Gần đây khi tìm được cách gây giống, các nhà khoa học Nhật Bản chứng minh được rằng những cây nấm màu sắc khác nhau không phải vì khác loại mà chỉ vì môi trường và điều kiện sinh hoạt khác nhau. Thay đổi điều kiện người ta có thể có được 6 loại từ cùng một giống.
Người ta trồng Linh chi thường theo ba phương pháp chính
Tiến trình nẩy mầm của Linh chi mộc hoang và do người trồng không khác gì nhau. Linh chi không thể nào trưởng thành nếu không có những điều kiện tối ưu gần với điều kiện thiên nhiên ở những nơi tìm thấy giống nấm này. Linh chi mọc hoang thường phẩm chất không được tốt mấy vì không phải ở đâu cũng có những điều kiện môi sinh lý tưởng. Hơn nữa, Linh chi hoang lại hay bị các bệnh tật nên thường ít khi nguyên vẹn. Người ta trồng Linh chi thường theo ba phương pháp chính: cấy trên các khúc gỗ, cấy trong chai lọ hay ống nghiệm, và cấy trong bồn lơn.
Trên thị trường hiện nay có 8 loại linh chi:
1. Nấm linh chi có đường kính từ 9 – 15cm, hình thận hoặc hình quạt, mặt trên màu đỏ cam đến đỏ, bóng láng, rất cứng; mặt dưới có màu vàng chanh nhạt đến trắng ngà; ruột nấm màu trắng ngà đến nâu nhạt. Tai nấm nặng từ 25 – 35g. Nấm có vị rất đắng do hàm lượng saponin trieroen cao.
2. Một loại nấm Linh chi có nguồn gốc Nhật Bản khác là nấm Linh chi đỏ sậm gần ngã sang màu tím than, vị rất đắng.
3. Loại nấm linh chi có màu đỏ cam đến đỏ, bóng, đường kính tai nấm từ 13-20cm, có hình thận, mặt trên hơi xốp, mặt dưới màu trắng ngà. Mỗi tai nấm nặng từ 30-45g. Nấm nhẫn đắng, hơi chua, có chất lượng khá. Các loại nấm nói trên do trung tâm NCLC&NDL trồng.
4. Nấm Linh chi Hàn Quốc nhập vào Việt Nam, tai nấm rời hoặc cho vào túi 500g/túi. Nấm hình thức đẹp, rất cứng, đường kính từ 15-30cm, mặt trên đỏ nâu còn một ít bào tử, mặt dưới màu vàng chanh nhạt, vị đắng, nặng từ 70-300g.
5. Nấm Linh chi Trung Quốc có màu đỏ nhạt đến đỏ, mặt trên còn ít bào tử màu nâu. Nấm thường có hình tròn, đường kính từ 15-30cm, hơi cứng, cuống đực cắt sát tai nấm. Mặt dưới nấm Trung Quốc thường hay bị phết một lớp màu vàng sậm như nghệ (chưa biết chất gì), mặt trên được chùi rửa và thoa thêm một lớp dầu ăn hoặc cồn cho bóng.
6. Nấm Linh chi Đà Lạt được sưu tầm và trồng tại Lâm Đồng, có màu đỏ, nhỏ, cuống dài hoặc đã được cắt lát, nặng chỉ khoảng 10-15g/tai nấm.
7. Nấm Linh chi có nguồn gốc từ Trung Quốc do Viện Di truyền nông nghiệp nhập giống từ Trung Quốc, trồng chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc. Nấm có cuống dài, phân nhánh và tai nấm nhỏ, trọng lượng chỉ khoảng 12-20g/tai nấm.
8. Cuối cùng là loại nấm Linh chi học hoang, bao gồm các loại mọc hoang ở núi rừng Việt Nam. Nấm này có đủ màu sắc từ màu nâu đến đen, đỏ, đỏ sậm… đa phần không phải là Nấm linh chi đúng nghĩa. Hình thức nấm từ hình quạt đến tròn, hoặc hình quả thận… cuống dài hoặc ngắn hoặc không cuống, tai nấm có đường kính từ 5cm cho đến 30 – 50cm. Nấm này chất lượng không ổn định do thu hái ngẫu nhiên hoặc còn non, hoặc quá gì bị mục, có khi bị mọt và nấm bị bệnh kí sinh, phơi sấy không đảm bảo.
Linh chi có thể dùng ở dạng nguyên tai nấm, cắt lát, xay hoặc chế biến thành những dạng thành phẩm như: viêm nang, viên nén bao đường, trà hoà tan, trà túi lọc, kem đánh răng… hoặc phối hợp với các dược liêu khác thành những sản phẩm hỗn hợp. Vì thế, sản phẩm từ nấm Linh chi ngày càng phong phú và đa dạng.
Thành phần hoá học và dược tính của Linh chi đã được các nhà khoa học phân tích cho thấy Linh chi có gần 200 hoạt chất và dẫn chất có trong Linh chi bao gồm: acid amin, các acid hữu cơ, các acid béo, terpenoid, alkaloid, protein, glycoprotein, các khoáng đa lượng và vi lượng. Vì thế từ nhiều ngàn năm nay, Linh chi chiếm vị trí cao nhất trong cổ thư Trung Quốc. Nó không còn xa lạ với thầy thuốc bốn phương và từ lâu đã có tên chính thức trong dược điển của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… như một phương thuốc đặt trị. Linh chi được xem như một loại thượng dược, không độc, không tác dụng phụ.
LƯƠNG Y HOÀNG DUY TÂN
NẤM LINH CHI
Linh chi viết theo kiểu phiên âm Trung Hoa Ling Zhi hay Ling chih, tên khoa học Ganoderma lucidum, là một loại nấm thuộc họ đa khổng (polyporaceae).
Trong thiên nhiên, nấm này thường chỉ có nơi rừng rậm, ít ánh sáng và độ ẩm cao. Những cây thường có Linh chi là cây mận, dẻ… Tuy nhiên trong hàng vạn cây già, chỉ có độ hai ba cây có Linh chi. Vì thế nấm này rất hiếm trong dạng thiên nhiên. Hơn thế nữa, nấm tìm được thường không mấy khi nguyên vẹn mà hay bị sâu bọ cắn nát. Vỏ ngoài của Linh chi rất cứng, nên việc nẩy mầm càng thêm khó khăn và việc tìm được cây nấm trở thành huyền thoại.
Linh chi có nhiều hình dạng khác biệt, có cái hình nấm nhưng mũ nấm không tròn mà nhăn nheo, có thứ giống như trái thận, có thứ lại hình giống như sừng hươu. Theo sách Thần Nông Bản Thảo có 6 loại Linh chi, mỗi loại có một công năng đặc biệt. Thanh chi (xanh) vị chua, tính bình, giúp cho mắt sáng, bổ can khí, giúp cho an thần, dùng lâu thận thể sẽ nhẹ nhàng, thoải mái. Xích chi (đỏ), vị đắng, chủ về phủ vị, ích cho khí của tạng tâm, tăng trí tuệ. Hắc chi (đen) ích thận khí, khiến cho đầu óc tinh tường. Bạch chi (trắng) ích phế khí, làm cho trí nhớ dai. Hoàng chi (vàng) ích tỳ khí, an thần, trung hòa. Tử chi (tím đỏ) bảo thần, ích tình, làm cứng gân cốt, da tươi đẹp. Cả sáu loại đều có công năng giúp người ta thân thể nhẹ nhàng, trẻ mãi không già, trường thọ.
Sách Bản Thảo cương mục viết là “Dùng lâu, người nhẹ nhàng, không gì, sống lâu như thần tiên.” Nói chung, Linh chi bổ ngũ tạng, nhưng mỗi loại bổ một khác. Tuy nhiên những hướng dẫn trong sách Thần Nông bản thảo hầu như chỉ dựa trên ngũ hành, ngũ sắc để luận hơn là được thử nghiệm thực tế. Màu xanh thuộc mộc, chủ can, cho nên thanh chi bổ gan; màu trắng thuộc kim, chủ phế, cho bên bạch chi bổ phổi; màu đen thuộc thủy, chủ thận, cho nên bổ thận; màu vàng thuộc thổ, chủ tỳ vị cho nên bổ tỳ… Những tác dụng và hiệu quả đều từ lý luận này mà suy ra.
Linh chi có rất nhiều tên gọi và có rất nhiều loại Linh chi khác nhau. Các loài Linh chi được xếp vào một họ riêng là họ nấm Linh chi Ganodermataceae, trong đó có chi Ganoderma có đến 80 loài. Riêng nấm có màu đỏ đã có 45 loại có màu sác khác nhau thay đổi từ vàng, cam, đỏ tía… Ngoài ra, nếu trồng Linh chi trong môi trường, điều kiện khác nhau, sẽ có màu sắc khác nhau. Do vậy, Linh chi đỏ được gọi là Linh chi chuẩn và tốt nhất trong các loại thuộc họ Linh chi.
Gần đây khi tìm được cách gây giống, các nhà khoa học Nhật Bản chứng minh được rằng những cây nấm màu sắc khác nhau không phải vì khác loại mà chỉ vì môi trường và điều kiện sinh hoạt khác nhau. Thay đổi điều kiện người ta có thể có được 6 loại từ cùng một giống.
Người ta trồng Linh chi thường theo ba phương pháp chính
Tiến trình nẩy mầm của Linh chi mộc hoang và do người trồng không khác gì nhau. Linh chi không thể nào trưởng thành nếu không có những điều kiện tối ưu gần với điều kiện thiên nhiên ở những nơi tìm thấy giống nấm này. Linh chi mọc hoang thường phẩm chất không được tốt mấy vì không phải ở đâu cũng có những điều kiện môi sinh lý tưởng. Hơn nữa, Linh chi hoang lại hay bị các bệnh tật nên thường ít khi nguyên vẹn. Người ta trồng Linh chi thường theo ba phương pháp chính: cấy trên các khúc gỗ, cấy trong chai lọ hay ống nghiệm, và cấy trong bồn lơn.
Trên thị trường hiện nay có 8 loại linh chi:
1. Nấm linh chi có đường kính từ 9 – 15cm, hình thận hoặc hình quạt, mặt trên màu đỏ cam đến đỏ, bóng láng, rất cứng; mặt dưới có màu vàng chanh nhạt đến trắng ngà; ruột nấm màu trắng ngà đến nâu nhạt. Tai nấm nặng từ 25 – 35g. Nấm có vị rất đắng do hàm lượng saponin trieroen cao.
2. Một loại nấm Linh chi có nguồn gốc Nhật Bản khác là nấm Linh chi đỏ sậm gần ngã sang màu tím than, vị rất đắng.
3. Loại nấm linh chi có màu đỏ cam đến đỏ, bóng, đường kính tai nấm từ 13-20cm, có hình thận, mặt trên hơi xốp, mặt dưới màu trắng ngà. Mỗi tai nấm nặng từ 30-45g. Nấm nhẫn đắng, hơi chua, có chất lượng khá. Các loại nấm nói trên do trung tâm NCLC&NDL trồng.
4. Nấm Linh chi Hàn Quốc nhập vào Việt Nam, tai nấm rời hoặc cho vào túi 500g/túi. Nấm hình thức đẹp, rất cứng, đường kính từ 15-30cm, mặt trên đỏ nâu còn một ít bào tử, mặt dưới màu vàng chanh nhạt, vị đắng, nặng từ 70-300g.
5. Nấm Linh chi Trung Quốc có màu đỏ nhạt đến đỏ, mặt trên còn ít bào tử màu nâu. Nấm thường có hình tròn, đường kính từ 15-30cm, hơi cứng, cuống đực cắt sát tai nấm. Mặt dưới nấm Trung Quốc thường hay bị phết một lớp màu vàng sậm như nghệ (chưa biết chất gì), mặt trên được chùi rửa và thoa thêm một lớp dầu ăn hoặc cồn cho bóng.
6. Nấm Linh chi Đà Lạt được sưu tầm và trồng tại Lâm Đồng, có màu đỏ, nhỏ, cuống dài hoặc đã được cắt lát, nặng chỉ khoảng 10-15g/tai nấm.
7. Nấm Linh chi có nguồn gốc từ Trung Quốc do Viện Di truyền nông nghiệp nhập giống từ Trung Quốc, trồng chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc. Nấm có cuống dài, phân nhánh và tai nấm nhỏ, trọng lượng chỉ khoảng 12-20g/tai nấm.
8. Cuối cùng là loại nấm Linh chi học hoang, bao gồm các loại mọc hoang ở núi rừng Việt Nam. Nấm này có đủ màu sắc từ màu nâu đến đen, đỏ, đỏ sậm… đa phần không phải là Nấm linh chi đúng nghĩa. Hình thức nấm từ hình quạt đến tròn, hoặc hình quả thận… cuống dài hoặc ngắn hoặc không cuống, tai nấm có đường kính từ 5cm cho đến 30 – 50cm. Nấm này chất lượng không ổn định do thu hái ngẫu nhiên hoặc còn non, hoặc quá gì bị mục, có khi bị mọt và nấm bị bệnh kí sinh, phơi sấy không đảm bảo.
Linh chi có thể dùng ở dạng nguyên tai nấm, cắt lát, xay hoặc chế biến thành những dạng thành phẩm như: viêm nang, viên nén bao đường, trà hoà tan, trà túi lọc, kem đánh răng… hoặc phối hợp với các dược liêu khác thành những sản phẩm hỗn hợp. Vì thế, sản phẩm từ nấm Linh chi ngày càng phong phú và đa dạng.
Thành phần hoá học và dược tính của Linh chi đã được các nhà khoa học phân tích cho thấy Linh chi có gần 200 hoạt chất và dẫn chất có trong Linh chi bao gồm: acid amin, các acid hữu cơ, các acid béo, terpenoid, alkaloid, protein, glycoprotein, các khoáng đa lượng và vi lượng. Vì thế từ nhiều ngàn năm nay, Linh chi chiếm vị trí cao nhất trong cổ thư Trung Quốc. Nó không còn xa lạ với thầy thuốc bốn phương và từ lâu đã có tên chính thức trong dược điển của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… như một phương thuốc đặt trị. Linh chi được xem như một loại thượng dược, không độc, không tác dụng phụ.
LƯƠNG Y HOÀNG DUY TÂN